Đại cương
Gan là cơ quan nội tạng lớn nhất cơ thể, nó nằm ở bờ sườn phải của bạn, ngay bên dưới phổi phải. Bạn không thể sống thiếu gan, nó có nhiều chức năng quan trọng như phân giải và dự trữ chất dinh dưỡng, sản xuất hầu hết yếu tố đông máu (những chất giúp bạn ngừng chảy máu khi bị thương), bài tiết mật (giúp bạn hấp thu chất dinh dưỡng, đặc biệt là chất béo), phân giải rượu, thuốc và các chất độc trong máu.
Ung thư gan là loại ung thư gây tử vong nhiều thứ hai trên thế giới, chỉ sau ung thư phổi. Ước tính có khoảng 782.000 trường hợp mới mắc và 745.000 trường hợp tử vong trên toàn cầu do ung thư gan. Riêng ở Việt Nam, khoảng 22.000 trường hợp mới mắc và 21.000 trường hợp tử vong do ung thư gan mỗi năm (theo số liệu của WHO năm 2012).
Theo một thống kê ở Mỹ của SEER từ năm 2005 đến năm 2011 thì cứ 100 người phát hiện ung thư gan và được chẩn đoán ở giai đoạn sớm thì chỉ có 30.5 người còn sống sau 5 năm, nếu ung thư gan được phát hiện trễ thì chỉ có 3.1 người còn sống sau 5 năm.
Phân loại
Gan được tạo thành chủ yếu từ tế bào gan, ngoài ra nó còn có nhiều nhóm tế bào khác, như là những tế bào lót thành mạch máu trong gan, những tế bào lót thành túi mật… Tất cả những tế bào này đều có thể hình thành các loại khối u các nhau, từ lành tính đến ác tính (ung thư). Vì vậy, những khối u này được điều trị khác nhau và có tiên lượng cũng khác nhau.
Tuy vậy, phần lớn các khối u được phát hiện tại gan không đến từ gan. Chúng bắt nguồn từ các phần khác của cơ thể, như là đại tràng, phổi và vú, sau đó di căn (lan truyền) đến gan. Loại ung thư này được đặt tên theo cơ quan mà nó khởi đầu, như là ung thư đại tràng di căn gan.
Biểu hiện
Phần lớn bệnh nhân không có triệu chứng ở giai đoạn sớm, những triệu chứng, nếu có, bao gồm:
– Sụt cân bất thường
– Ăn không ngon
– Đau vùng bụng trên
– Buồn nôn và nôn
– Mệt mỏi kéo dài
– Sưng phồng vùng bụng
– Vàng da
– Phân bạc màu
Yếu tố nguy cơ
Một số trường hợp ung thư gan không rõ nguyên nhân, nhưng những yếu tố sau làm gia tăng nguy cơ phát triển ung thư gan:
– Viêm gan mạn tính (viêm gan B, C)
– Xơ gan
– Những bệnh lý di truyền trên gan
– Béo phì
Dự phòng
Việc dự phòng ung thư gan chủ yếu được thực hiện nhằm loại trừ các yếu tố nguy cơ gây ung thư gan. Một trong những biện phát thành công nhất là việc tiêm ngừa viêm gan siêu vi B. Tuy vậy hiện nay vẫn chưa thể chủng ngừa viêm gan siêu vi C. Những biện pháp dự phòng khác thường liên quan đến việc ngăn ngừa lây nhiễm virus viêm gan B, C như là sử dụng kim tiêm an toàn, xét nghiệm các sản phẩm máu và tầm soát những người có nguy cơ cao. Ngoài ra việc giảm uống rượu, giảm cân và điều trị bệnh tiểu được cũng giúp giảm nguy cơ ung thư gan. Nhưng theo chúng tôi, điều quan trọng nhất trong dự phòng mọi loại ung thư là có một chế độ ăn uống khỏe mạnh.
Điều trị
Việc điều trị ung thư gan xoay quanh các lựa chọn sau. Đầu tiên là loại bỏ toàn bộ gan bằng phẫu thuật và thay thế nó bằng một phần gan hoàn toàn mới từ người cho tạng, đây là lựa chọn có hy vọng điều trị lớn nhất. Ngoài ra, bác sĩ cũng có thể chỉ định cắt một phần gan của bệnh nhân và giữ lại phần gan khỏe mạnh còn lại, nếu khối u gan có kích thước nhỏ hơn 5cm, chưa xâm lấn/lây lan vào thành mạch máu hoặc những cơ quan khác và chức năng gan tổng thể vẫn còn tốt. Tuy nhiên, phương pháp này tồn tại khá nhiều rủi ro trong lúc phẫu thuật và ung thư gan rất dễ tái phát sau đó. Nhóm thứ hai là những phương pháp cố tiêu diệt tế bào ung thư trong khi không làm tổn thương tế bào bình thường, gồm các biện pháp như sử dụng sóng radio, liệu pháp ngắm trúng đích hay phương pháp làm tắc mạch máu nuôi khối u để tiêu diệt tế bào ung thư. Nhóm thứ ba là sử dụng xạ trị và hóa trị, chúng có thể làm khối ung thư co rút lại, nhưng vẫn chưa rõ điều này có làm gia tăng cơ hội sống của bệnh nhân hay không.
Tài liệu tham khảo
http://globocan.iarc.fr/Pages/fact_sheets_population.aspx
http://www.mayoclinic.org/diseases-conditions/liver-cancer/home/ovc-20198165
http://www.cancer.org/cancer/livercancer/detailedguide/liver-cancer-what-is-liver-cancer
http://www.cancer.org/cancer/livercancer/detailedguide/liver-cancer-treating-general-info
http://pathology.jhu.edu/liver/treatment.cfm
Chịu trách nhiệm thông tin: Đoàn Bảo Phương
Medical reviewer: Dr. Minh Do, VietMD.net Inc., USA.
Lần cuối xem xét khoa học: 31/05/2016.
Lần cuối chỉnh sửa: 31/05/2016.
“biện pháp như sử dụng sóng radio,” dịch từ radiotherapy? thì phải dịch là xạ trị
“liệu pháp ngắm trúng đích”, dịch từ “targeted therapy”? thì nên dịch là liệu pháp đặc hiệu
mình đã đọc lại liver cancer treatment trong trang http://pathology.jhu.edu/liver/treatment.cfm, mà mình nghĩ là bạn dịch từ đây. Nhóm điều trị thứ 2 mà bạn nói là tumor ablation?, đơn giản là tiêu diệt khối u thôi, còn radiofrequency ablation mà nói là sử dụng sóng radio thì rất khó hiểu, nếu dịch là dùng điện đốt khối u thì dễ hiểu hơn. Vài dòng góp ý.
Cảm ơn bạn đã góp ý. Về 2 câu hỏi này liên quan đến phần dịch thuật nhiều hơn, mình sẽ trả lời chung cho 2 reply
‘Biện pháp sử dụng sóng radio’ thì đúng như bạn nói, mình lấy từ cụm ‘radiofrequency ablation’, còn ‘targeted therapy’ mình dịch là ngắm trúng đích vì trong tiếng anh còn một chữ ‘specific’ dịch là đặc hiệu sẽ hợp lý hơn, và hai từ này rất thường được sử dụng cùng với nhau, ví dụ như câu ‘They work by targeting specific genes or proteins’.
Ở đây mình muốn phân biệt nhóm thứ 2 và nhóm thứ 3, đều cùng có tác dụng tiêu diệt tế bào ung thư, nhưng nhóm thứ 2 sẽ cố gắng chỉ tiêu diệt tế bào ung thư sử dụng những công cụ đặc hiệu.
‘Radiofrequency ablation’ hay RFA được dịch chính xác là đốt điện khối u bằng sóng cao tầng, nhưng ở đây chúng mình không đặt nặng về từ ngữ mà chỉ giới thiệu chung về những phương pháp điều trị nên mình nghĩ dùng từ ‘sử dụng sóng radio để tiêu diệt khối u’ cũng đã tương đối đủ nghĩa.