Giới thiệu
Đối với bệnh ung thư, một khi tình trạng di căn đã xảy ra thì khả năng chữa khỏi là rất thấp. Chính vì vậy, việc phát hiện sớm là chìa khóa để giảm tử vong do ung thư. Hiện nay, chỉ có phát hiện ung thư sớm tuyến tiền liệt được sử dụng xét nghiệm máu dựa trên đo lường kháng nguyên tuyến tiền liệt (PSA, Prostate-Specific Antigen). Hầu hết các xét nghiệm phát hiện ung thư khác không dựa trên mẫu máu như nội soi đại tràng để phát hiện ung thư ruột, chụp quang tuyến vú để phát hiện ung thư vú và kiểm tra tế bào cổ tử cung để phát hiện ung thư cổ tử cung. Vài năm gần đây một phương pháp xét nghiệm mới được phát triển và thử nghiệm có tên gọi sinh thiết lỏng, đây là phương pháp hứa hẹn nhằm phát hiện và theo dõi các khối u từ việc thu nhận mẫu máu một cách đơn giản. Phương pháp này được thiết kế để phát hiện một loại ung thư nhất định bằng cách phát hiện các đột biến liên quan đến ung thư bên trong chuỗi DNA tự do trong máu (ctDNA, Circulating Tumor DNA). Tuy nhiên, phương pháp này vẫn còn một số hạn chế nhất định và quan trọng nhất là có nhiều kết quả dương tính giả – nghĩa là phát hiện DNA ung thư ngay cả khi không có ung thư. Độ nhạy của xét nghiệm cũng là một vấn đề khó khăn đối với sinh thiết lỏng, khối u nhỏ thường không giải phóng nhiều DNA vào máu như các khối u lớn và các bằng chứng hiện có cho thấy các bệnh nhân ung thư giai đoạn đầu không thể phát hiện được do có chứa lượng đột biến nhỏ trên mỗi đơn vị huyết tương. Bên cạnh đó, một vấn đề khác của sinh thiết lỏng là việc xác định mô ung thư gốc, vì sự đột biến gen giống nhau có thể dẫn đến nhiều loại khối u khác nhau, chính vì vậy sinh thiết lỏng chỉ dựa trên phân tích gen nói chung không thể xác định được vị trí của khối u nguyên thủy. (Xem thêm bài viết giới thiệu về sinh thiết lỏng tại: https://ruybangtim.com/xet-nghiem-sinh-thiet-long-mau-nuoc-tieu-co-chan-doan-duoc-ung-thu-khong/) Chính vì vậy, hiện tại có rất nhiều nhóm nghiên cứu vẫn đang tiếp tục phát triển các phương pháp xét nghiệm để tầm soát và theo dõi tiến trình ung thư và cũng như đưa ra các hướng dẫn cho bác sĩ nhằm đưa ra phác đồ điều trị phù hợp. Một nghiên cứu mới được công bố vào ngày 18 tháng 1 năm 2018 Trên tạp chí Science của Nickolas Papadopoulos, Joshua D. Cohen – Trung tâm nghiên cứu Ung thư Ludwig đại học Johns Hopkins và các đồng sự khác cho nhiều kết quả khả quan đó là phát triển một phương pháp xét nghiệm có thể phát hiện ung thư sớm, khi chúng dễ điều trị hơn và giảm bớt những hạn chế của phương pháp sinh thiết lỏng. Phương pháp xét nghiệm này được đặt tên là CancerSEEK, có thể phát hiện ra 8 loại ung thư khác nhau gồm có: ung thư buồng trứng, ung thư gan, ung thư dạ dày, ung thư tụy, ung thư thực quản, ung thư trực tràng, ung thư phổi và ung thư vú. Kết quả nghiên cứu cho thấy phương pháp này có thể phát hiện được khoảng 70% trong hơn 1.000 người đã được chẩn đoán mắc bệnh ung thư. Phương pháp này không chỉ phát hiện ra các đột biến DNA mà còn cho biết tình trạng bất thường của các protein nhất định liên quan đến ung thư.1. Đánh giá đột biến DNA:
Những thách thức của phương pháp này là phải giải quyết các điểm sau: cần đủ căn cứ để cho phép phát hiện một số lượng lớn các bệnh ung thư. Thứ hai: phát hiện các đột biến có tỷ lệ thấp. Thứ ba, giảm thiểu tín hiệu không chính xác hay dương tính giả và thứ tư xét nghiệm phải giảm thiểu về chi phí. Kết quả cho thấy khả năng phát hiện tối đa của DNA tuần hoàn trong máu (ctDNA) thay đổi theo loại khối u, từ 60% đối với ung thư gan đến 100% đối với ung thư buồng trứng. Phương pháp cho phép phát hiện các đột biến hiếm gặp dự kiến sẽ xuất hiện trong ctDNA huyết tương. Hơn nữa, trong phương pháp này, lượng DNA thu được từ huyết tương được phân chia thành nhiều phần nhỏ và thực hiện các xét nghiệm độc lập, việc này giúp dễ phát hiện các đột biến hơn. Bảng sau đây là các gen có mang những đột biến được sử dụng trong phương pháp này:TP53 | PTEN |
BRAF | NRAS |
KRAS | HRAS |
GNAS | EGFR |
AKT1 | FGFR2 |
APC | PIK3CA |
CDKN2A | CTNNB1 |
FBXW7 | PPP2R1A |
2. Đánh giá những biến đổi Protein ung thư:
Thành phần thứ hai của CancerSEEK dựa trên các chỉ thị sinh học protein. Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng phần lớn các khối u giai đoạn sớm không phát hiện thấy được các ctDNA, ngay cả khi các kỹ thuật cực kỳ nhạy được sử dụng. Tám protein sau đã được chứng minh là đặc biệt hữu ích cho việc chẩn đoán ung thư:CA-125 |
CA19-9 |
CEA |
HGF |
Myeloperoxidase |
OPN |
Prolactin |
TIMP-1 |