Tin đồn & Sự thậtGMO và sức khỏe, phần 1: Tìm hiểu chung về GMO:...

GMO và sức khỏe, phần 1: Tìm hiểu chung về GMO: lịch sử và hiện trạng

Thực phẩm tiêu thụ hằng ngày ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe và chất lượng sống của chúng ta. Chính vì vậy, khi thực phẩm có nguồn gốc GMO (Genetically modified organism) hay chính xác hơn là thực phẩm biến đổi gen đang có xu hướng chiếm ưu thế trên thị trường thực phẩm toàn cầu, những tranh luận về GMO đã và đang nóng lên trong vòng 10 năm trở lại đây, bằng chứng là lượt tìm kiếm với từ khóa “GMO” trên google đã tăng gấp 3 lần từ năm 2013 so với 10 năm trước đó (1). Mặc dù nhiều cơ quan và tổ chức chính thống từ các chính phủ lẫn WHO đã khẳng định chưa có bằng chứng về tác hại của GMO đối với sức khỏe con người, câu hỏi về việc tiêu thụ thực phẩm biến đổi gen có ảnh hưởng tới sức khỏe con người hay không vẫn gây hoang mang cho người tiêu dùng. Trước những thông tin trái chiều tràn ngập và khái niệm GMO vẫn còn mới lạ đối với người dân Việt, chúng tôi xin gửi tới bạn đọc loạt bài viết về GMO. Trong loạt bài này, chúng tôi hi vọng có thể giới thiệu với bạn đọc những kiến thức cơ bản về cơ sở khoa học và nguồn gốc của thực phẩm biến đổi gen. Chúng tôi cũng hi vọng gửi đến khán giả tổng hợp những bằng chứng khoa học xác thực, cập nhật và khách quan nhất có thể về vấn đề GMO đối với sức khỏe con người. Bài viết sẽ không đưa ra ý kiến cụ thể về việc nên hay không nên ăn thực phẩm biến đổi gen, nhưng hi vọng qua đó, độc giả có thể tự rút ra câu trả lời cho chính mình về sự lựa chọn thực phẩm của mình.

1) Tìm hiểu nguồn gốc khoa học của thực phẩm GMO

Bài viết phân loại thực phẩm thành 3 nhóm: GMO, non-GMO (không GMO) và Organic (thực phẩm hữu cơ).

1.1 Định nghĩa

GMO: GMO là viết tắt của Genetically Modified Organism, hay sinh vật biến đổi gen, là sinh vật được thay đổi về vật liệu di truyền (bộ gen/DNA) bằng công nghệ sinh học hiện đại, gọi là công nghệ gen, để tạo ra một đặc tính mới cho sinh vật (ví dụ như sức đề kháng của thực vật, côn trùng hoặc hạn hán, khả năng chịu thuốc diệt cỏ, hay tăng chất lượng thực phẩm hoặc giá trị dinh dưỡng, tăng sản lượng). Thực phẩm có chứa thành phần có nguồn gốc từ sinh vật biến đổi gen, hoặc được tạo ra từ sinh vật biến đổi gen được gọi là thực phẩm biến đổi gen (2). Ở Việt Nam, thực phẩm biến đổi gen được gọi là thực phẩm GMO; chính vì vậy, khái niệm này sẽ được dùng xuyên suốt trong bài viết. Trong hiện tại, thực phẩm biến đổi gen trên thị trường hoàn toàn có nguồn gốc từ thực vật (3). Organic: Thực phẩm Organic, hay còn gọi là thực phẩm hữu cơ là những loại thực phẩm được sản xuất bởi các quy trình nông nghiệp hữu cơ. Những quy trình này phải đảm bảo quá trình canh tác thúc đẩy sự đa dạng sinh thái và các quy trình sinh học, bao gồm sử dụng phân bón có nguồn gốc hữu cơ (có nguồn gốc từ sinh vật), giới hạn loại và số lượng thuốc trừ sâu và chu trình canh tác đất luân canh (thay đổi loại cây trồng theo mùa) (4). Hiện tại, Liên minh Châu Âu, Hoa Kỳ, Canada, Mexico, Nhật Bản và nhiều nước khác yêu cầu các nhà sản xuất phải có giấy chứng nhận đặc biệt để bán thực phẩm làm thực phẩm hữu cơ trong phạm vi biên giới. Trong bối cảnh của các quy định này, thực phẩm hữu cơ được sản xuất tuân thủ theo các tiêu chuẩn hữu cơ do các tổ chức khu vực, các chính phủ quốc gia và các tổ chức quốc tế đặt ra. Mặc dù sản phẩm vườn nhà bếp có thể hữu cơ, để được dán nhãn hữu cơ chính thức phải được thông qua bởi các cơ quan an toàn thực phẩm của chính phủ như Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) hoặc Ủy ban châu Âu (EC) (5). Tại Việt Nam hiện vẫn chưa có quy định và nhãn dán chính thức cho thực phẩm hữu cơ được bày bán trong nước. Do vậy, bất kì nhãn dán nào được ghi là “Organic” hay “Thực phẩm hữu cơ” ở Việt Nam đều có thể xem như chưa qua kiểm định chính thức nào. Thực phẩm GMO hay được dán nhãn Organic đều phải được thông qua các quy trình giám sát và kiểm tra cụ thể, tùy theo từng quốc gia mà chúng ta sẽ nói kĩ trong mục 2. Tất cả các thực phẩm ngoài thị trường không qua biến đổi gen nhưng cũng không qua những quy trình kiểm định Organic, hay những thực phẩm không đóng gói đều được xếp vào loại thực phẩm non-GMO.

1.2 Lược sử về nguồn gốc GMO và lịch sử khoa học trong nông nghiệp

Mặc dù khái niệm về thực phẩm biến đổi gen nhờ công nghệ mới xuất hiện trong thế kỷ 20, trên thực tế, loài người đã can thiệp vào gen của cây trồng để cho ra tính trạng như mong muốn từ rất lâu bằng phương pháp chọn lọc nhân tạo, hay còn gọi là chọn giống. Bằng cách chọn lai giữa các cá thể mang đặc tính như mong muốn và loại đi những cá thể xấu, qua nhiều thế hệ loài người đã tạo ra những loài vật nuôi và cây trồng mang ưu thế lai và có gen hoàn toàn mới so với giống ban đầu. Khoảng 32000 năm trước, loài người đã thuần hóa chó sói và liên tục chọn giống trong nhiều thế hệ để tăng tính thuần phục, tạo ra loài chó nuôi trong nhà như ngày nay (6.) Mặc dù thực vật được “biến đổi gen” sớm nhất vào khoảng 7800 năm trước Công Nguyên là lúa mì (7), bắp (ngô) chúng ta ăn ngày nay chính là ví dụ tiêu biểu nhất về việc thực phẩm chúng ta ăn ngày nay khác xa thực phẩm tự nhiên ban đầu như thế nào (hình 1).
corn-and-teosinte_f
Hình 1: Bắp ngô ngày nay (phải) so với cỏ dại nguồn gốc teosinte (trái). Trong quá trình chọn giống, bắp ngô mất khả năng tồn tại trong môi trường hoang dã nhưng có thêm những tính trạng phù hợp với mục đích nông nghiệp. So với teosinte, cây bắp ngô có lớp vỏ quanh hạt mềm hơn, tai ngô ít nhưng to hơn với các hạt nhiều hơn so với cỏ dại. Hạt ngô trên hình được so với đồng xu 25 cent. Nguồn: Nicolle Rager Fuller, National Science Foundation.
  Một số loài thực vật chúng ta ăn thời nay, bằng phương pháp chọn giống cũng khác hẳn với nguồn gốc hoang dại ban đầu của nó như chuối (không hạt so với chuối dại) (13), bông cải xanh (đầu to hơn gốc ban đầu) (14) và táo (ngọt và mọng nước hơn táo dại) (15). Biến đổi gen cũng xảy ra trong tự nhiên không do tác động của con người qua một quá trình gọi là chuyển gen ngang (Horizontal gen transfer). Quá trình này được cho là xảy ra khi gen của vi khuẩn được chuyển ngang sang bộ gen của động/thực vật, tạo ra giống khoai lang ngọt như ngày nay (16). Quá trình chọn giống trước thường đòi hỏi nhiều thời gian và đôi khi rất khó để có được giống lai có tính trạng như mong muốn, nhất là đối với các tính trạng được quy định bỏi nhiều gen. Để tăng tốc quá trình chọn giống này, khoảng đầu thế kỷ 20, khi khoa học bắt đầu biết về DNA và vai trò của chúng, các nhà sinh học đã dùng các biện pháp vật lý, hóa học để gây đột biến DNA (dùng phóng xạ, dùng hóa chất gây đột biến) lên thực vật, tạo các “mẻ đột biến” và tiến hành chọn lọc lấy cây mang tính trạng mong muốn trong số những cây bị đột biến đó.  Mặc dù tốc độ tạo giống mới nhanh hơn rất nhiều so với việc chờ đợi đột biến ngẫu nhiên trong tự nhiên, nhưng phương pháp này vẫn dựa trên may mắn, vì đột biến sinh ra vẫn là đột biến ngẫu nhiên.  Sự ra đời của Kỹ thuật di truyền (Genetic Engineering, viết tắt là GE) với thí nghiệm cắt dán gen kháng kháng sinh giữa hai loài vi khuẩn của Boyer và Cohen vào năm 1973 mở đầu một bước đột phá trong công nghệ sinh học (17), và cũng là cái kết cho phương pháp chọn giống dùng phương pháp vật lý/hóa học để gây đột biến gen nói trên. Một năm sau đó, thí nghiệm đưa DNA của virus SV40 vào phôi thai chuột của Jaenisch và Mintz cho thấy chúng ta có công nghệ có thể sửa đổi gen một cách cụ thể và chính xác và áp dụng trên nhiều loại sinh vật (18). Ngay sau đó, hàng loạt tranh luận nổ ra giữa giới khoa học, chính phủ lẫn truyền thông về những lo ngại về nguy cơ tiềm tàng mà công nghệ gen có thể đem lại với sức khỏe toàn cầu hay sự an toàn của sinh giới và môi trường.  Không lâu sau, lệnh cấm sử dụng công nghệ gen được ban hành để các ban ngành khoa học, chính phủ và những nhà làm luật trên toàn thế giới có thời gian đánh giá sự an toàn cũng như quy trình chuẩn của nghiên cứu về công nghệ gen. Năm 1975, Hội nghị Asilomar (Asilomar Conference) diễn ra trong 3 ngày với sự tham gia của 40 chuyên gia bao gồm các nhà khoa học, luật sư và quan chức chính phủ đã kết luận rằng các dự án công nghệ gen nên được tiếp tục với những quy chuẩn nhất định (19). Các quy chuẩn này đều có thể thay đổi nếu có những kiến thức hay phát kiến mới trong khoa học. Nhờ vào các quy chuẩn rõ ràng trên, tất cả các công trình khoa học liên quan tới công nghệ gen đều được tiếp tục và tạo ra một kỷ nguyên mới cho khoa học công nghệ. Năm 1982, cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) lần đầu tiên phê duyệt dược phẩm đầu tiên được sản xuất bởi sinh vật biến đổi gen, Humulin, có thể dùng trong y học lên con người (20). Humulin được sản xuất bằng cách đưa gen người, Insulin vào vi khuẩn Escherichia coli. Vi khuẩn này có thể được nuôi và nhân lên số lượng lớn để có thể sản xuất đủ lượng hoocmon để lọc, đóng gói và kê toa cho bệnh nhân tiểu đường. Năm 1992, cây trồng biến đổi gen đầu tiên, giống cà chua FLAVR SAVR với độ chắc chắn và tuổi thọ cao, được Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ phê duyệt sản xuất ra thị trường (21). Kể từ đó, công nghệ gen được sử dụng rộng rãi trong nông nghiệp lẫn dược phẩm, tạo ra các chế phẩm và thực phẩm có ích và giải quyết nhiều vấn đề toàn cầu. Một số ví dụ tiêu biểu như giống ngô kháng sâu hại lá (22), thực vật kháng thuốc diệt cỏ (23), đậu tương giàu axit béo (24), gạo vàng (25) hay thuốc chống đông máu Atryn được sản xuất từ dê (26).

1.3 Quy trình tạo ra thực phẩm biến đổi gen

Quy trình chung để tạo ra thực phẩm GMO gồm 4 bước cơ bản:
  •         Bước 1: Xác định tính trạng mong muốn. Các nhà khoa học thường cố gắng xác định tính trạng mong muốn ở sinh vật cần biến đổi gen bằng cách quan sát tự nhiên xem có sinh vật nào có tính trạng mong muốn tương tự để tiến hành cắt dán gen. Lấy ví dụ, để tạo ra gạo vàng có khả năng sản xuất một số lượng lớn tiền tố vitamin A (beta carotene hay pro-vitamin A), người ta tiến hành sàng lọc và lên danh sách các sinh vật có thể sản xuất pro-vitamin A ví dụ như bắp ngô.
  •         Bước 2: Xác định gen mã hóa tính trạng mong muốn. Quy trình sàng lọc gen được tiếp tục tiến hành bằng các phương pháp so sánh bộ gen giữa các sinh vật có thể sản xuất ra tính trạng mong muốn hoặc bằng cách loại bỏ DNA một cách có hệ thống cho đến khi tính trạng đó mất đi. Bằng cách này, đoạn gen chính xác quy định tính trạng mong muốn được xác định.
  •         Bước 3: “Cắt dán” gen. Trong công nghệ gen, chuỗi DNA có thể được cắt và dán bởi loại enzyme đặc biệt. Nhờ vậy, chuỗi DNA quy định tính trạng mong muốn có thể được cắt ra từ bất kì một sinh vật nào và được đưa vào tế bào thực vật bằng Gene Gun (súng bắn gen) hoặc bằng cách dán vào vòng DNA của vi khuẩn Agrobacterium tumifacien. Sau đó, vi khuẩn sẽ chuyển chuỗi DNA vào bộ gen của tế bào thực vật. Các thành phần khác của vi khuẩn sẽ được tế bào tiêu hủy bằng phản ứng phòng vệ tự nhiên.
  •         Bước 4: Trồng cây/Nuôi sinh vật. Sau khi cắt dán gen, tế bào được nuôi trong phòng thí nghiệm để kiểm tra kiểu gen và sau đó, được nuôi thành thực vật trong nhà kính với khí hậu được kiểm soát và điều chỉnh phù hợp để kiểm tra kiểu hình. Một khi được tạo ra thành công, các hạt giống sẽ được nuôi trồng và nhân lên để sản xuất hàng loạt.
Với sự phát triển và giảm giá thành của công nghệ giải mã gen lẫn công nghệ thao tác chỉnh sửa trên gen sử dụng endonuclease như CRISPR/Cas-9, quy trình biến đổi gen trong tương lai sẽ được rút gọn thời gian với độ chính xác cao, hiệu quả, công nghệ đơn giản, giá thành thấp và có thể áp dụng trên mọi gen và mọi sinh vật (27,28). Nhờ vào những hiểu biết hiện đại về DNA và Kỹ thuật di truyền, nông nghiệp chuyển sang một bước tiến mới khi không những các tính trạng tốt có thể được xác định chính xác mà những gen mong muốn từ các giống loài/sinh vật ngành khác còn có thể được ghép vào cây trồng để tạo ra những cây trồng thực phẩm có ưu thế. Quy trình biến đổi gen đã giúp rút ngắn thời gian chọn giống, thu hẹp diện tích canh tác cho cùng 1 sản lượng sản xuất và giảm thiểu lượng thuốc trừ sâu cần thiết (Hình 2). Do vậy, thực phẩm biến đổi gen có thể được sản xuất hàng loạt với giá thành thấp hơn, sản lượng cao hơn, đáp ứng nhu cầu ngày một tăng của dân số thế giới.
gmo.222
Hình 2: Tổng thể hiệu quả của việc canh tác thực vật biến đổi gen so với thực vật không biến đổi gen. Nhìn chung, cây trồng biến đổi gen đạt sản lượng cao hơn, dùng ít thuốc trừ sâu và tốn ít chi phí hơn, tăng lợi nhuận cho nông dân. Nguồn: Klumper and Qaim, PLoS One 2014 (29)
 

2)    Tình hình sản xuất và tiêu thụ GMO trên toàn thế giới

Trong vòng 20 năm trở lại đây, việc sản xuất trồng trọt GMO trên toàn cầu tăng cao gấp 94 lần, chiếm 180 triệu hecta diện tích canh tác. Mỹ là nơi trồng nhiều thực phẩm biến đổi gen nhất, theo sau là các nước Nam Mỹ như Brazil, Argentina. (Xem thêm Phụ lục 1: Những thực phẩm GMO đã được phê duyệt bày bán trên thị trường Mỹ). Tại châu Á, Ấn Độ, Trung Quốc, Pakistan là những nguồn sản xuất GMO hàng đầu (30,31). Phần lớn các nước châu Âu, mặc dù cấm việc trồng trọt sản xuất GMO cho mục đích nông nghiệp nhưng là lục địa nhập khẩu GMO hàng đầu thế giới (31,32). Khoảng hơn 30 triệu tấn bắp ngô, đậu nành và sản phẩm chăn nuôi GMO được nhập vào châu Âu hàng năm. Chỉ có 6 quốc gia hoàn toàn cấm trồng trọt, nhập khẩu và tiêu thụ GMO bao gồm: Nga (GMO chỉ được dùng trong nghiên cứu), Bhutan, Algeria, Kyrgyzstan, Mdagascar, và Peru30-32. Tại Việt Nam, 3 giống ngô có khả năng kháng sâu bệnh GMO được phép trồng và sản xuất kinh doanh theo Thông tư số 08/2013/TT-BTNMT ngày 16/5/2013 của Bộ Tài nguyên và Môi Trường. 3 giống ngô này là đều phát triển từ giống nền NK66 của công ty Syngenta và đều được bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chứng nhận an toàn sinh học (33). Vậy thực phẩm GMO được các cơ quan chính thống kiểm soát như thế nào? Phần dưới đây sẽ tóm tắt các đạo luật bởi các chính phủ trên thế giới cũng như Việt Nam trong việc kiểm soát thị trường thực phẩm biến đổi gen.

3)    GMO trên thị trường tiêu dùng được chính phủ kiểm soát như thế nào?

Thực phẩm biến đổi gen là một sản phẩm của khoa học kĩ thuật. Do đó, những vấn đề về an toàn thực phẩm và an toàn sinh học cũng như sự ảnh hưởng tới sinh thái của GMO đều phải được kiểm soát nghiêm ngặt. Năm 1992, Liên hợp quốc, thông qua hội thảo Agenda-21 nhấn mạnh việc quản lý sinh vật biến đổi gen và ban hành những hướng dẫn về việc kiểm soát, tiêu chuẩn thử nghiệm, quy trình chứng nhận, đóng gói và dán nhãn cho thực phẩm GMO. Năm 2003, Ủy ban Tiêu Chuẩn Thực Phẩm Codex (CAC), một tổ chức được thành lập bởi Tổ chức Nông lương thế giới FAO và Tổ chức Y tế thế giới WHO ban hành Codex guideline, bao gồm những hướng dẫn cụ thể về việc thẩm định an toàn của sinh vật biến đổi gen (34). Những hướng dẫn này được xem như cơ sở cho việc quản lý và kiểm soát thực phẩm GMO ở từng quốc gia và khu vực lãnh thổ.    Hầu hết các nước đều có một nhóm cố vấn liên ngành để đánh giá các vấn đề khoa học và kỹ thuật liên quan đến GMOs. Để có hiệu quả, các cơ quan quản lý chịu trách nhiệm chung về cây trồng biến đổi gen và các sản phẩm của họ đều phải dựa trên dữ liệu thực nghiệm và những báo cáo khoa học uy tín. (Xem thêm Phụ lục 2: Các quy định về thực phẩm GMO ở một số nước)  Tại Việt Nam, do vẫn còn số lượng có hạn thực phẩm biến đổi gen được sản xuất và canh tác, hệ thống quản lý thực phẩm GMO còn chưa được hoàn chỉnh. Ngày 8/1/2016: Thông tư liên tịch số 45 giữa Bộ Khoa học Công nghệ và Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn ban hành: tất cả các thực phẩm GMO có trên 5% tổng nguyên liệu đều phải được dán nhãn (37). Việc dán nhãn sản phẩm chỉ áp dụng cho thực phẩm đóng gói sẵn; thực phẩm tươi sống, thực phẩm được chế biến không phải tuân thủ các quy định này. Hoạt động nuôi trồng sinh vật biến đổi gen để sản xuất hay nghiên cứu phải được chấp hành theo  Nghị định số 69/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 6 năm 2010 của Chính phủ về an toàn sinh học đối với sinh vật biến đổi gen (38), được chỉnh sửa thêm vào ngày 30 tháng 11 năm 2011. Đối với việc nhập khẩu thực phẩm GMO, ở Việt Nam chưa có quy định cụ thể. Tuy nhiên, theo khảo sát năm 2010 của Trung tâm kỹ thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng 3, trên 323 mẫu sản phẩm được lựa chọn ngẫu nhiên tại 17 siêu thị và chợ ở TPHCM, có khoảng 40% bắp ngô, 26% đậu nành, 10% gạo, 13% khoai tây và  10% cà chua là thực phẩm biến đổi gen (39).

4)    Phong trào phản đối GMO trên toàn thế giới

Thực phẩm GMO được sản xuất rộng rãi và có tiềm năng giải quyết nhu cầu dinh dưỡng trên thế giới, với tình hình tăng trưởng dân số thế giới. Các tổ chức khu vực quốc tế như National Academy of Sciences (NAS), FDA, ESFA, và WHO liên tục đưa ra bằng chứng khoa học và khẳng định sự an toàn của thực phẩm GMO đối với sức khỏe con người (3,40). Tuy nhiên, những tranh cãi mối liên hệ giữa can thiệp công nghệ và sự an toàn đối với người tiêu dùng vẫn liên tục nổ ra từ khi GMO được giới thiệu ra thị trường cho tới tận bây giờ. Cả hai phía, phản đối và ủng hộ đều đưa ra những bằng chứng khoa học, có cơ sở lẫn không có cơ sở để củng cố cho luận điểm của mình.   Có 3 lo ngại chính cho cộng đồng toàn cầu khi nói về GMO trong an toàn thực phẩm:
  • Ăn thực phẩm GMO mang DNA “ngoại lai” sẽ gây các tác dụng xấu đến sức khỏe.
  • Chất kháng sâu/bệnh trong các GMO mang gen tự sinh các chất này sẽ đầu độc người sử dụng bằng chính các chất đó.
  • GMO mang gen kháng thuốc trừ cỏ sẽ làm tăng nguy cơ lạm dụng các thuốc này và gây tồn dư trong thực phẩm cũng như hại môi trường.
Cả hai phía khi đưa ra luận điểm của mình đều cho rằng việc thiết kế thí nghiệm đã cố tình chọn lọc những phương pháp có lợi để phân tích kết quả nghiên cứu, dẫn đến kết luận có lợi cho giả thiết của mình (42,43). Phía ủng hộ GMO còn cho rằng, một trong những nguyên do của những bất đồng ý kiến này được cho là đến từ việc hạn chế về truyền tải thông tin khoa học tới công chúng. Những nghiên cứu thường được công bố và công nhận bởi các tạp chí uy tín thường chỉ được lưu hành và đánh giá chính xác trong giới chuyên gia. Trong khi đó, truyền thông và báo chí đại chúng có thể đưa những nghiên cứu và tin tức không chọn lọc và mang tính sơ bộ và có thể không chính xác nhiều hơn (44). Tổng hợp nghiên cứu năm 2015 từ các nghiên cứu về hiểu biết của người tiêu dùng từ Mỹ, Châu Âu, và một số nước châu Á cho thấy 50% người tiêu dùng có ít kiến thức về GMO và khoảng trên 70% nhận được thông tin về thực phẩm GMO từ các phương tiện thông tin không mang tính chuyên gia như internet, 60% từ TV và hơn 50% từ người quen biết. Chỉ có khoảng 10% có được thông tin về GMO qua các bài báo khoa học. Còn phía phản đối GMO cho rằng, có rất ít các thực nghiệm độc lập chứng minh sự an toàn của GMO do sản phẩm của các công ty sản xuất GMO lớn như Monsanto, Syngenta được bảo vệ bởi luật sở hữu trí tuệ (45). Do vậy, một trong những nhà khoa học hàng đầu phiá phản đối GMO, giáo sư thần kinh học David Schubert từ Salk Institute, UCSD cho rằng phần lớn các nghiên cứu ủng hộ GMO đều bị “conflict of interest” và khó lòng trung lập hoàn toàn. Tuy nhiên, ông cũng tin là thực phẩm GMO trong tương lai vẫn có thể được đưa vào sản xuất nếu những thí nghiệm về an toàn nên được thiết kế chặt chẽ và minh bạch hơn (46). Để giải quyết các vấn đề trên, hãy cùng nhìn nhận từng vấn đề từ ý định ban đầu của việc tạo ra GMO, đến tại sao GMO này lại có thể gây hại, và kết quả khoa học về độ an toàn của chúng đến thời điểm hiện tại. Phần 2: Tác động của DNA và Protein ngoại lai đối với sức khỏe. Phần 3: Glyphosate (Roundup) và mối liên hệ với GMO. Phần 4: Có nên tránh/cấm GMO hay không?   Ghi chú: Các quan ngại về GMO không chỉ gói gọn trong 3 vấn đề nêu trên, mà còn có nhiều vấn đề liên quan khác, như vấn đề về sinh thái hay kinh tế. Tuy nhiên, loạt bài này sẽ chỉ giới hạn trong các vấn đề về an toàn thực phẩm. Ccác quan ngại khác xin để riêng cho phần bình luận, nếu độc giả nào muốn mở rộng vấn đề.   Chịu trách nhiệm bài viết: Lê Anh Phương, Nguyễn Cao Luân Cố vấn khoa học: Ts. Nguyễn Hồng Vũ Lần cuối cập nhật: 13/8/2018  

Tài liệu tham khảo

 

Phụ lục

  1. Các thực phẩm biến đổi gen đã được phê duyệt bày bán trên thị trường Mỹ bao gồm :
Thực phẩm Nguồn gốc của tính trạng Tính trạng
Bắp ngô Vi sinh vật, các giống bắp khác Kháng sâu bệnh
Khả năng chịu thuốc diệt cỏ
Bắp đực không có khả năng sinh sản
Sản xuất Alpha-amylase
Tăng sản xuất lysine
Chịu hạn
Đậu nành Vi sinh vật, bắp ngô, yến mạch, các giống đậu nành khác Khả năng chịu thuốc diệt cỏ
Tăng sản xuất dầu oleic acid
Kháng sâu bệnh
Mù tạt xanh Khả năng điều hòa nhịp sinh học
Canola Vi sinh vật Khả năng chịu thuốc diệt cỏ
Cây đực không có khả năng sinh sản
Nấm Phân hóa phytate
Khoai tây Vi sinh vật Kháng sâu bệnh
Virus Kháng virus
Các loài khoai tây khác Sản xuất ít đường hơn
Sản xuất ít asparagine
Giảm độ thâm
Cà chua Vi sinh vật, khoai tây Làm chậm quá trình mềm
Vi sinh vật Kháng sâu bệnh
Rau cải tím (Radicchio) Vi sinh vật Khả năng chịu thuốc diệt cỏ
Cây đực không sinh sản được
Rau cải mầm (Alfafa) Vi sinh vật Khả năng chịu thuốc diệt cỏ
Củ cải đường Vi sinh vật Khả năng chịu thuốc diệt cỏ
Gạo Vi sinh vật Khả năng chịu thuốc diệt cỏ
Táo Các giống loại táo khác Làm chậm quá trình thâm
Dưa lưới (Cantaloupe) Vi sinh vật Lầm chậm quá trình chín
Bí đao Virus Kháng virus
Đu đủ Virus Kháng virus
Mận Virus Kháng virus
Lúa mì Vi sinh vật Khả năng chịu thuốc diệt cỏ
Bảng tổng kết từ http://www.accessdata.fda.gov/scripts/fdcc/index.cfm?set=Biocon Có thể thấy, trái với hình dung về thực phẩm GMO như là những trái cây to gấp 4-5 lần bình thường, trên thực tế các tính trạng của thực phẩm GMO thiên về tăng năng suất cây trồng và thành phần dinh dưỡng. Khảo sát sơ bộ trên cho thấy không có thực phẩm biến đổi gen để làm cho tăng kích thước quá mức bình thường được phê duyệt ngoài thị trường thực phẩm ở Mỹ.  
  1. Các quy định về thực phẩm GMO ở một số nước
Tại Mỹ, các quy định về thực phẩm nói chung và thực phẩm GMO nói riêng được quy định bởi 3 cơ quan: Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) quy định về thành phần của thực phẩm, Bộ Nông Nghiệp (USDA) quy định về quy trình trồng trọt và vận chuyển thực phẩm, và Cơ Quan Bảo Vệ Môi Trường (EPA) quy định về độ an toàn của thực phẩm tới sức khỏe con người và môi trường 35. Thực phẩm tại Mỹ được kiểm soát dựa trên nguyên tắc đánh giá độ an toàn của thành phẩm cuối cùng và mục đích sử dụng hơn là quá trình tạo ra thành phẩm. Do đó tại FDA, giống như những thực phẩm thông thường, thực phẩm GMO hầu hết được đánh giá chung là an toàn và không cần phê duyệt. Phê duyệt chỉ cần thiết nếu thực phẩm GMO có hàm lượng độc tố hoặc chất gây dị ứng cao, hoặc mức độ dinh dưỡng thấp hơn thực phẩm bình thường. USDA thường yêu cầu các công ty phải trình nhiều loại dữ liệu trước khi một thực phẩm GMO nào đó có thể được đưa vào sản xuất. Tuy nhiên tại EPA, thực phẩm GMO phải được thông qua các kiểm tra thực nghiệm trên tế bào và sinh vật sống như chuột, để xác định không gây độc hại cho cơ thể và không có thành phần gây dị ứng. Do đó, thực phẩm GMO khi được ra thị trường phải đáp ứng đủ yêu cầu của 3 cơ quan trên. Năm 2015, đạo luật về dán nhãn thực phẩm an toàn và chính xác năm 2015 được thông qua bởi Hạ viện quy định rằng thay vì tham vấn tự nguyện với FDA về các vấn đề an toàn của thành phần thực phẩm GMO, tất cả các loại thực phẩm biến đổi gen phải phê duyệt trước khi ra thị trường. Thực phẩm GMO sẽ được dán nhãn nếu thành phần khác với thực phẩm thông thường. So với Hoa Kỳ, EU áp đặt các quy định nghiêm ngặt hơn cho thực phẩm GMO. Ủy ban châu Âu, cơ quan điều hành EU đã thiết lập chính sách chung về quy định về thực phẩm GMO vào năm 2002 5. Nguyên tắc chung của EU là tất cả các thực phẩm GM phải được kiểm soát bởi vì chúng được làm bằng các quy trình khác với các loại thực phẩm được sử dụng để sản xuất thực phẩm thông thường. Khi các công ty nộp đơn xin phê chuẩn thực phẩm GMO cho một quốc gia thành viên EU, Cơ quan an toàn thực phẩm châu Âu EFSA tiến hành các đánh giá khoa học về rủi ro sức khoẻ cho con người và môi trường. Các quyết định phê chuẩn sẽ được soạn thảo bởi Ủy ban châu Âu dựa trên các đánh giá của EFSA, sau đó được bình chọn bởi một ủy ban gồm đại diện của các quốc gia thành viên EU. Sau khi được phê duyệt, thực phẩm biến đổi gien trên thị trường phải được dán nhãn. Cụ thể, các sản phẩm thực phẩm có chứa hơn 0,9% thành phần biến đổi gen phải được dán nhãn là thực phẩm biến đổi gen. Luật mới của EU được thông qua vào năm 2015 cho phép các quốc gia tự do hơn trong việc phê chuẩn thực phẩm GM. Các quốc gia thành viên có thể cấm thực phẩm GMO dựa trên các cân nhắc như chính sách kinh tế xã hội và truyền thống sử dụng đất. Luật này thể hiện hai sự thay đổi lớn trong quy định của EU về thực phẩm biến đổi gen: quyền cấp phép nhiều hơn được trao cho các quốc gia thành viên, và ảnh hưởng của các dữ liệu khoa học về an toàn thực phẩm GM sẽ giảm. Tại Trung Quốc, thực phẩm GMO được quản lý chặt chẽ bởi Quy định Hành chính về An toàn cho Các GMO nông nghiệp ban hành vào năm 2001 và ba biện pháp hành chính đồng thời ban hành vào năm 2002 (MOA 2002) cùng với các Hướng dẫn Kiểm tra an toàn các thử nghiệm thực địa của cây trồng biến đổi gen 36. Thực phẩm biến đổi gen được nhập khẩu hay sản xuất trong nước đều phải thông qua nhiều cơ quan chính quyền như: Bộ Nông nghiệp, Ủy ban an toàn sinh học quốc gia và Ủy ban Kỹ thuật Tiêu chuẩn Quốc gia về Quản lý an toàn các sinh vật biến đổi gen nông nghiệp. Toàn bộ thực phẩm biến đổi gen trên thị trường Trung Quốc đều được dán nhãn. Trên thực tế, Trung Quốc là quốc gia có nhiều thực phẩm GMO được dán nhãn nhất.  
Tài liệu tham khảo
1       GMO – Explore – Google, <https://trends.google.com/trends/explore?date=all&q=GMO> (2017).

2       Genetically Modified Organisms, <http://ec.europa.eu/food/plant/gmo_en> (2017).

3       WHO|Food, Genetically modified, <http://www.who.int/topics/food_genetically_modified/en/> (2017).

4       Gold, M. V. Organic Production/Organic Food: Information Access Tools, <https://www.nal.usda.gov/afsic/organic-productionorganic-food-information-access-tools> (2007).

5       EU Policy, <https://ec.europa.eu/agriculture/organic/eu-policy_en> (2017).

6       Zimmer, C. Dogs: From Fearsom Predator to Man’s Best Friend, <http://www.nytimes.com/2013/05/16/science/dogs-from-fearsome-predator-to-mans-best-friend.html?_r=0&adxnnl=1&ref=science&adxnnlx=1368713430-N272zh4+W5fjM4y0hFrmqg> (2013).

7       Balter, M. Farming Was So Nice, It Was Invented at Least Twice, <http://www.sciencemag.org/news/2013/07/farming-was-so-nice-it-was-invented-least-twice> (2013).

8       Beadle, G. W. in Scientific American Vol. 1   8 (1980).

9       Matsuoka, Y. et al. A single domestication for maize shown by multilocus microsatellite genotyping. Proc Natl Acad Sci U S A 99, 6080-6084, doi:10.1073/pnas.052125199 (2002).

10     Ranere, A. J., Piperno, D. R., Holst, I., Dickau, R. & Iriarte, J. The cultural and chronological context of early Holocene maize and squash domestication in the Central Balsas River Valley, Mexico. Proc Natl Acad Sci U S A 106, 5014-5018, doi:10.1073/pnas.0812590106 (2009).

11     Piperno, D. R., Ranere, A. J., Holst, I., Iriarte, J. & Dickau, R. Starch grain and phytolith evidence for early ninth millennium B.P. maize from the Central Balsas River Valley, Mexico. Proc Natl Acad Sci U S A 106, 5019-5024, doi:10.1073/pnas.0812525106 (2009).

12     Gurdon, C., Svab, Z., Feng, Y., Kumar, D. & Maliga, P. Cell-to-cell movement of mitochondria in plants. Proc Natl Acad Sci U S A 113, 3395-3400, doi:10.1073/pnas.1518644113 (2016).

13     Heslop-Harrison, J. S. & Schwarzacher, T. Domestication, genomics and the future for banana. Ann Bot 100, 1073-1084, doi:10.1093/aob/mcm191 (2007).

14     Buck, P. A. Origin and Taxonomy of Broccoli. Economic Botany 10, 250-253, doi:10.1007/BF02899000 (1956).

15     Cornille, A. et al. New Insight into the History of Domesticated Apple: Secondary Contribution of the European Wild Apple to the Genome of Cultivated Varieties. PLOS Genetics, doi:https://doi.org/10.1371/journal.pgen.1002703 (2012).

16     Kyndt, T. et al. The genome of cultivated sweet potato contains Agrobacterium T-DNAs with expressed genes: An example of a naturally transgenic food crop. Proc Natl Acad Sci U S A 112, 5844-5849, doi:10.1073/pnas.1419685112 (2015).

17     Cohen, S. N., Chang, A. C., Boyer, H. W. & Helling, R. B. Construction of biologically functional bacterial plasmids in vitro. Proc Natl Acad Sci U S A 70, 3240-3244 (1973).

18     Jaenisch, R. & Mintz, B. Simian virus 40 DNA sequences in DNA of healthy adult mice derived from preimplantation blastocysts injected with viral DNA. Proc Natl Acad Sci U S A 71, 1250-1254 (1974).

19     Berg, P., Baltimore, D., Brenner, S., Roblin, R. O. & Singer, M. F. Summary statement of the Asilomar conference on recombinant DNA molecules. Proc Natl Acad Sci U S A 72, 1981-1984 (1975).

20     Altman, L. K. A NEW INSULIN GIVEN APPROVAL FOR USE IN U.S., <http://www.nytimes.com/1982/10/30/us/a-new-insulin-given-approval-for-use-in-us.html> (1982).

21     Redenbaugh, K. et al. Safety Assessment of Genetically Engineered Fruits and Vegetables: A Case Study of the Flavr Savr Tomato.  (CRC Press, 1992).

22     Sears, M. K. et al. Impact of Bt corn pollen on monarch butterfly populations: a risk assessment. Proc Natl Acad Sci U S A 98, 11937-11942, doi:10.1073/pnas.211329998 (2001).

23     Funke, T., Han, H., Healy-Fried, M. L., Fischer, M. & Schonbrunn, E. Molecular basis for the herbicide resistance of Roundup Ready crops. Proc Natl Acad Sci U S A 103, 13010-13015, doi:10.1073/pnas.0603638103 (2006).

24     Buhr, T. et al. Ribozyme termination of RNA transcripts down-regulate seed fatty acid genes in transgenic soybean. Plant J 30, 155-163 (2002).

25     Ye, X. et al. Engineering the provitamin A (beta-carotene) biosynthetic pathway into (carotenoid-free) rice endosperm. Science 287, 303-305 (2000).

26     Heavey, S. U.S. approves first drug from DNA-altered animals, <http://www.reuters.com/article/us-gtc-atryn-idUSTRE5154OE20090206> (2009).

27     Hsu, P. D., Lander, E. S. & Zhang, F. Development and applications of CRISPR-Cas9 for genome engineering. Cell 157, 1262-1278, doi:10.1016/j.cell.2014.05.010 (2014).

28     Luo, M., Gilbert, B. & Ayliffe, M. Applications of CRISPR/Cas9 technology for targeted mutagenesis, gene replacement and stacking of genes in higher plants. Plant Cell Rep 35, 1439-1450, doi:10.1007/s00299-016-1989-8 (2016).

29     Klumper, W. & Qaim, M. A meta-analysis of the impacts of genetically modified crops. PLoS One 9, e111629, doi:10.1371/journal.pone.0111629 (2014).

30     GeneWatch UK – Worldwide Commercial Growing – Where GM crops are grown around the world, <http://www.genewatch.org/sub-532326> (

31        (International Service for the Acquisition of Agri-Biotech Applications).

32     Where are GMOs grown and banned? #GMOFAQ, <https://gmo.geneticliteracyproject.org/FAQ/where-are-gmos-grown-and-banned/> (

33     Thêm hai giống ngô biến đổi gen được cấp giấy chứng nhận an toàn sinh học, <http://www.monre.gov.vn/wps/portal/tintuc/!ut/p/c5/RcnRDkMwFADQL1ruVYI9YluxytKWoS9LI5kwQ9jEfP32tpzHAwp-er00tX41Q687KEDZt4B6oeUwRIyOBkb8JMyQMoKUQAnK-b9rCxujcH9NYyMgiAakUKB1ky0ObybH8yaXNa1w2hepaDeOyKtz1_F89JiKqPrcOyvOfGtWRM3aq4WgTaCz_iKTjUmX-M_xNJV8Ddr6sMt9M4Hxob0vu1nzhQ!!/> (

34        (Codex Alimentarius. International Food Standards, 2008).

35     Acosta, L. Restrictions on Genetically Modified Organisms: United States. (Law Library of Congress, United States, 2014).

36     Kou, J., Tang, Q. & Zhang, X. Agricultural GMO safety administration in China. Journal of Integrative Agriculture 14, 2157-2165, doi:https://doi.org/10.1016/S2095-3119(15)61109-1 (2015).

37       (ed Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn – Bộ Khoa học và Công nghệ) (Vietnam, 2015).

38       (ed Chính phủ) (2010).

39     Hiền, T. T. M. Khảo sát sự có mặt của GMO trong nông sản nguyên liệu và một số sản phẩm chế biến khác đang lưu hành tại thị trường TPHCM. (Trung tâm kỹ thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng 3, TPHCM, Vietnam, 2009).

40     in Genetically Engineered Crops: Experiences and Prospects (2016).

41     Ledford, H. in Nature News (Nature, 2016).

42     Retraction notice to “Long term toxicity of a Roundup herbicide and a Roundup-tolerant genetically modified maize” [Food Chem. Toxicol. 50 (2012) 4221-4231]. Food Chem Toxicol 63, 244 (2014).

43     Wunderlich, S. & Gatto, K. A. Consumer perception of genetically modified organisms and sources of information. Adv Nutr 6, 842-851, doi:10.3945/an.115.008870 (2015).

44     Inese, A. Latvian consumers’ knowledge about genetically modified organisms. Management of Organizations: Systematic Research, 7-16, doi:http://dx.doi.org/10.7220/MOSR.2335.8750.2014.71.1 (2014).

45    Robinson, C., Antoniou, M. & Fagan, J. in GMO Myths and Truths: A Citizen’s Guide to the Evidence on the Safety and Efficacy of Genetically Modified Crops and Foods, 3rd Edition (2013).

46     Blancke, S., Van Breusegem, F., De Jaeger, G., Braeckman, J. & Van Montagu, M. Fatal attraction: the intuitive appeal of GMO opposition. Trends Plant Sci 20, 414-418, doi:10.1016/j.tplants.2015.03.011 (2015).

Tác giả và chuyên gia

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Nhận bảng tin từ chúng tôi

LỰA CHỌN CỦA BIÊN TẬP VIÊN

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Có thể bạn quan tâm