1. Ung thư bàng quang
Bàng quang là một cơ quan rỗng, có thể giãn rộng, nằm trong khung chậu với chức năng lưu trữ nước tiểu trước khi được thải ra qua niệu đạo. Chức năng này giúp bàng quang trở thành một phần vô cùng quan trọng của hệ tiết niệu. Ung thư bàng quang là sự phát triển của lớp mô bất thường, hay còn gọi là u, tại bàng quang.
- Ung thư bàng quang được phân loại dựa trên hình thái u dưới kính hiển vi, bao gồm 3 loại chính là:
- Ung thư biểu mô niệu (urothelial cell carcinoma – UCC) chiếm khoảng 90% các loại ung thư bàng quang, đồng thời cũng chiếm khoảng 10-15% các trường hợp ung thư thận niệu ở người lớn. Ung thư biểu mô niệu còn được gọi là ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp (transitional cell carcinoma – TCC)
- Ung thư biểu mô tế bào vảy (squamous cell carcinoma), bắt nguồn từ các tế bào vảy phát triển trong lớp niêm mạc bàng quang để phản ứng với kích thích và viêm. Ung thư biểu mô tế bào vảy chiếm khoảng 4% các loại ung thư bàng quang
- Ung thư biểu mô tuyến (Adenocarcinoma) là ung thư biểu mô phát triển từ các tế bào tuyến, chiếm khoảng 2% các loại ung thư bàng quang
Ngoài ra còn có các loại ung thư bàng quang khác, ít phổ biến hơn, bao gồm ung thư mô liên kết (sarcoma) và ung thư tế bào nhỏ. Sarcoma thường bắt đầu trong lớp mỡ hoặc cơ của bàng quang. Ung thư bàng quang tế bào nhỏ là loại ung thư bàng quang hiếm gặp, có khả năng di căn sang các cơ quan khác.
2. Thống kê về hút thuốc lá và nguy cơ ung thư bàng quang
Theo thống kê của WHO đến tháng 9 năm 2018 (1), ung thư là nguyên nhân tử vong đứng thứ hai trên toàn thế giới, gây ra 9.6 triệu ca tử vong trong năm 2018, ước tính cứ 6 ca sẽ có 1 ca tử vong do ung thư. Một phần ba số ca tử vong do ung thư đều có chung các đặc điểm sau: chỉ số khối cơ thể cao, ăn uống thiếu rau quả và trái cây, thiếu hoạt động thể chất, sử dụng thuốc lá và rượu bia. Trong đó hút thuốc lá là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất và chịu trách nhiệm cho khoảng 22% các trường hợp tử vong do ung thư.
Cũng theo thông tin từ Hiệp hội ung thư Hoa Kỳ (ACS) vào tháng 1 năm 2020 (2), ước tính tại Hoa Kỳ sẽ có khoảng 81400 trường hợp mắc ung thư bàng quang (trong đó nam là 62100 và nữ là 19300), trong đó hút thuốc lá là nguyên nhân cho khoảng 47% các trường hợp phát triển ung thư bàng quang. Ở nam giới, ung thư bàng quang đứng thứ tư trong số các loại ung thư thường gặp. Tỉ lệ ung thư bàng quang ở nam giới cao gấp 4 lần ở nữ giới, có thể giải thích do yếu tố nguy cơ về lối sống và hành vi, bao gồm cả tỉ lệ hút thuốc lá ưu thế ở nam giới so với nữ giới.
Ước tính sẽ có 17980 ca tử vong vì ung thư bàng quang trong năm nay, tỉ lệ tử vong ước tính ở nam giới cũng cao hơn so với nữ giới, tương ứng là 13050 và 4930 trường hợp. Ung thư bàng quang là nguyên nhân tử vong đứng thứ 8 ở nam giới. Mặc dù tỷ suất mắc bệnh ở nam giới có vẻ giảm qua từng năm, tuy nhiên tử suất lại không có sự thay đổi đáng kể.
Một chỉ số rất được ưa chuộng trong điều trị ung thư là tỉ lệ sống 5 năm. Tỉ lệ sống 5 năm là chỉ số các ca còn sống sau 5 năm chẩn đoán ung thư, biểu hiện bằng tỉ lệ phần trăm. Tỉ lệ sống 5 năm ở ung thư bàng quang là 74% và tỉ lệ sống 10 năm là 46% . Tuy nhiên, tỉ lệ sống lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, bao gồm loại và giai đoạn ung thư bàng quang khi chẩn đoán. Ngoài ra còn có một phần không nhỏ về việc thay đổi lối sống và thói quen và nỗ lực cải thiện bản thân trong quá trình điều trị.
3. Tại sao hút thuốc lá lại gây ung thư bàng quang?
Thuốc lá và xì gà nói chung được làm từ quá trình phơi khô lá thuốc, có bổ sung thêm một số thành phần phụ gia để tăng hương vị. Khói thuốc từ thuốc lá là sự pha trộn của nhiều chất hóa học phức tạp khi đốt cháy thuốc lá và phụ gia. Theo công bố từ Hiệp hội ung thư Hoa Kỳ (3), thuốc lá làm từ hàng ngàn các loại chất hóa học, trong số đó có tối thiểu 70 hoạt chất được biết đến với khả năng gây ung thư (carcinogens), một số hoạt chất gây ung thư có trong thuốc lá bao gồm:
- Nicotine (là hoạt chất nổi tiếng nhất và được coi là nguyên nhân sử dụng thuốc lá của hầu hết người dùng)
- Hydrogen cyanide
- Formaldehyde
- Chì
- Chất asen (hay còn gọi là thạch tín)
- Amoniac
- Các hoạt chất phóng xạ, ví dụ như uranium
- Benzen
- Carbon monoxide
- Nitrosamines
- Các loại hydrocarbons thơm đa vòng (PAHs)
Trong số các hoạt chất gây ung thư trên thì chất phóng xạ (như uranium) là hoạt chất gây hoang mang và khó hiểu nhất. Tuy nhiên các nhà khoa học đã tìm ra được các thành phần hóa học phóng xạ tồn tại trong lá thuốc lá được sử dụng để làm thuốc lá và xì gà, các loại hóa chất này đến từ phân bón và đất trong quá trình trồng cây thuốc lá, do đó lượng chất phóng xạ trong thuốc lá phụ thuộc phần lớn và điều kiện đất và loại phân bón được sử dụng trong quá trình trồng. Các chất phóng xạ sẽ phát tán trong không khí khi đốt thuốc lá, sau đó được hít vào, gây ra các loại ung thư, bao gồm ung thư bàng quang.
Theo Viện sức khỏe quốc gia Anh (National Health Institute United Kingdom), hút thuốc lá là nguy cơ lớn nhất nhất gây ung thư bàng quang, ngoài ra hút thuốc lá còn là nguyên nhân của 70% số ca ung thư phổi, và là nguyên nhân cho các loại ung thư khác như ung thư thanh quản, thực quản, ung thư tiêu hoá do thành phần trong thuốc lá có chứa chất hóa học gây ung thư (4) như đã kể trên. Khi hút thuốc qua nhiều năm, khói thuốc sẽ dần đi vào dòng máu và đến cơ quan chuyên phụ trách lọc máu và nước tiểu trong cơ thể chính là thận. Khi các thành phần hóa học gây ung thư được lọc qua thận và đi vào nước tiểu sẽ di chuyển theo dòng nước tiểu qua niệu quản, bàng quang và được thải ra ngoài. Tuy nhiên việc bàng quang phải phơi nhiễm với các chất hóa học độc hại lặp đi lặp lại trong suốt thời gian dài do chức năng giữ nước tiểu sẽ gây ra thay đổi trong lớp tế bào lót lòng bàng quang (tế bào biểu mô) và dẫn tới ung thư bàng quang.
Bên cạnh thuốc lá và xì gà, hiện nay người dùng còn ưa chuộng một loại thuốc lá mới có tên gọi là thuốc lá điện tử. Thuốc lá điện tử và một số thiết bị truyền tải nicotin điện tử (Electronic nicotine delivery systems – ENDs) thường được sử dụng như một phương pháp thay thế cho thuốc lá và xì gà thông thường. Mặc dù được quảng cáo rầm rộ về độ an toàn của sản phẩm, nhưng trên thực tế các chất hóa học được sử dụng trong đó có thể chứa nicotin gây nghiện, hương liệu và một số phụ gia độc hại gây ung thư. Nồng độ của các loại chất ung thư có thể thấp hơn so với dòng thuốc lá truyền thống, nhưng lượng nicotine và phụ gia trong các sản phẩm thuốc lá điện tử lại rất khác nhau do không được tiêu chuẩn hóa toàn cầu. Tuy vẫn đang còn trong quá trình nghiên cứu nhưng cũng không thể khẳng định chắc chắn rằng thuốc lá điện tử và ENDs không làm tăng khả năng ung thư.
4. Hút thuốc lá thụ động có tăng nguy cơ ung thư bàng quang?
Secondhand smoke (SHS, tạm dịch: lớp khói thuốc thứ hai) hay còn được gọi là environmental tobacco smoke (ETS, tạm dịch: khói thuốc lá môi trường) là sự pha trộn của hai loại khói thuốc sau đây:
- Dòng khói thuốc chính: Thuốc lá sau khi đốt sẽ được người sử dụng thuốc lá trực tiếp hít vào qua đường miệng, chu du qua phổi đồng thời nhả lượng khói thuốc còn lại qua đường mũi. Dòng khói thuốc được thải qua đường mũi của người sử dụng còn được gọi là dòng khói thuốc chính.
- Dòng khói thuốc phụ: Là dòng khói thuốc từ phần đốt của thuốc lá, xì gà hay thuốc đốt trong ống điếu. Loại khói này có nồng độ các chất gây ung thư cao hơn và độc hại hơn dòng khói thuốc chính, đồng thời các hạt khói cũng nhỏ hơn. Hạt khói nhỏ hơn sẽ dễ dàng đi vào phổi và tế bào trong cơ thể.
Khi những người không hút thuốc lá tiếp xúc với lớp khói thuốc thứ hai sẽ có hiện tượng được gọi là hút thuốc lá không tự nguyện (Involuntary smoking) hay hút thuốc lá thụ động (Passive smoking). Những người không hút thuốc hít phải lớp khói thuốc thứ hai sẽ hấp thụ nicotin và các chất độc hại tương tự như ở người hút thuốc lá trực tiếp. Khi tiếp xúc càng nhiều về lượng và số lần, nồng độ các hóa chất độc hại trong cơ thể người tiếp xúc sẽ càng cao.
Cũng theo thông tin từ Hiệp hội ung thư Hoa Kỳ (5), lớp khói thuốc thứ hai có thể gây ra một số loại ung thư, trong đó có ung thư bàng quang. Tạp chí Nghiên cứu Quản lý Ung thư (The cancer management Research) gần đây cũng đăng một bài nghiên cứu chỉ ra tỉ lệ tăng nguy cơ ung thư bàng quang trọn đời lên đến 22% ở những bệnh nhân không hút thuốc phơi nhiễm với lớp khói thuốc thứ hai so với những bệnh nhân không phơi nhiễm (6).
5. Ngăn ngừa hút thuốc và nguy cơ ung thư bàng quang
Thật đáng mừng khi hút thuốc là yếu tố nguy cơ có thể kiểm soát được. Việc ý thức về sức khỏe và lên kế hoạch ngừng hút thuốc là điều vô cùng cần thiết để giảm thiểu bệnh tật nói chung cũng như sự xuất hiện hay tiến triển của ung thư bàng quang nói riêng. Khi lựa chọn ngưng thuốc lá đồng thời bạn cũng đang lựa chọn một lối sống lành mạnh hơn.
Trong thời gian một vài tuần đầu khi bắt đầu ngưng thuốc, các triệu chứng cai thuốc sẽ xuất hiện và dần trở nên mạnh mẽ hơn khiến bạn dễ dàng gục ngã. Đó là khi cơ thể bạn đòi hỏi cung cấp nicotin để có thể trở về trạng thái bình thường. Nhiều người đã không thể vượt qua giai đoạn này và bắt đầu hút thuốc trở lại chỉ sau một thời gian ngắn ngừng hút thuốc, tuy nhiên khi đã vượt qua được thời gian khó khăn này, lợi ích về lâu dài cho sức khỏe của bạn và người thân quanh bạn là vô cùng to lớn.
Ngay khi ngừng hút thuốc thành công, hầu hết những người nghiện thuốc lá trước đây có thể cảm nhận rõ sự cải thiện tuần hoàn và hô hấp, cũng như sự nhạy bén về khứu giác và vị giác hơn. Ngừng hút thuốc còn làm giảm nguy cơ trụy tim mạch và tử vong do ung thư phổi. Nghiên cứu trên 143279 phụ nữ hậu mãn kinh cho thấy, trong 10 năm sau khi cai thuốc lá, nguy cơ ung thư bàng quang giảm đến 25% và tiếp tục giảm tiếp trong những năm tiếp theo (7). Một nghiên cứu tổng quan và phân tích hệ thống cũng cho thấy, ngừng hút thuốc còn giảm những tác động có hại gây tiến triển ung thư bàng quang không xâm lấn cơ và xâm lấn cơ (8).
Do đó, vì lợi ích sức khỏe cho bản thân bạn và những người xung quanh, điều quan trọng nhất là không nên tập hút thuốc vì bất kỳ lý do gì và nếu bạn đang là người nghiện hút thuốc thì nên ngưng càng sớm càng tốt.
Tác giả: BS. Trần Thụy Hương Quỳnh, Nghiên cứu sinh – Đại học y khoa Kansai
Cố vấn khoa học:
Nguyễn Hồng Vũ, TS, Viện Nghiên cứu ung thư, City of Hope, California, USA
Nguyễn Thị Kim Thương, BS Y học cổ truyền, Thành viên Ban Y học Ruy Băng Tím
Trịnh Vạn Ngữ, ThS, ĐH SoonChunHyang, Hàn Quốc
Lần cuối chỉnh sửa khoa học: 24/08/2020
Tài liệu tham khảo
- World Health Organization. (2018, September 12). Cancer. Retrieved from https://www.who.int/news-room/fact-sheets/detail/cancer
- American Society of Clinical Oncology (ASCO). (2020, January). Bladder Cancer: Statistics. Retrieved from https://www.cancer.net/cancer-types/bladder-cancer/statistics
- American Cancer Society. (2017, April 5). Harmful Chemicals in Tobacco Products. Retrieved from https://www.cancer.org/cancer/cancer-causes/tobacco-and-cancer/carcinogens-found-in-tobacco-products.html
- The National Health Service. (2018, May 10). Bladder Cancer. Retrieved from https://www.nhs.uk/conditions/bladder-cancer/causes/
- American Cancer Society. (2015, November 13). HHealth Risks of Secondhand Smoke. Retrieved from https://www.cancer.org/cancer/cancer-causes/tobacco-and-cancer/secondhand-smoke.html
- Yan, H., Ying, Y., Xie, H., Li, J., Wang, X., He, L., … & Zheng, X. (2018). Secondhand smoking increases bladder cancer risk in nonsmoking population: a meta-analysis. Cancer management and research, 10, 3781.
- Li, Y., Tindle, H. A., Hendryx, M. S., Xun, P., He, K., Liang, X., & Luo, J. (2019). Smoking Cessation and the Risk of Bladder Cancer among Postmenopausal Women. Cancer Prevention Research, 12(5), 305-314.
- Rink, M., Crivelli, J. J., Shariat, S. F., Chun, F. K., Messing, E. M., & Soloway, M. S. (2015). Smoking and bladder cancer: a systematic review of risk and outcomes. European urology focus, 1(1), 17-27.